Để tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, các chuyên gia chống cộng, các “học giả’’ tư sản, các phần tử cơ hội đã và đang ráo riết sử dụng nhiều thủ đoạn thâm độc, kể cả thủ đoạn cố tình xuyên tạc lịch sử. Bên cạnh việc tuyên truyền xuyên tạc sự đối lập giữa chủ nghĩa Mác- Lênin với tư tưởng Hồ Chí Minh, họ còn truyền bá luận điểm: tư tưởng Hồ Chí Minh đối lập với quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nguy hiểm hơn, gần đây có một số phần tử cơ hội tự nhận là những “học giả’’ am hiểu sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh đã lợi dụng vào một số nhận xét bước đầu có chỗ chưa đúng, phớt lờ những kết luận đúng đắn của Quốc tế Cộng sản, nhất là của Đảng ta về Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng do Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh soạn thảo(2/1930) để rêu rao rằng, chính Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ, ở Hồ Chí Minh không có hệ thống quan điểm tư tưởng mang tính lý luận, những triết lý cao siêu, mà chỉ có những tư tưởng tản mạn, còn mang nặng tàn tích của chủ nghĩa quốc gia cải lương, nên tư tưởng Hồ Chí Minh đối lập với những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là một luận điểm không đúng, một biểu hiện sinh động về sự xuyên tạc lịch sử .
Thực tế
lịch sử đã chứng minh, những đường lối, chủ trương ở các văn kiện
phục vụ Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản trong nước (2/1930), thể hiện
sâu sắc sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt
Nam của Hồ Chí Minh. Nhưng thời ấy, vì Quốc tế Cộng sản không sát tình hình
thực tế, đánh giá không đúng về tình hình, đặc điểm ở các nước, nhất là đặc điểm
của các nước thuộc địa, lại bị chi phối bởi quan điểm "tả" khuynh
đang giữ vai trò chủ đạo, nên đã chỉ trích,
phê phán đường lối cách mạng Việt Nam do Hồ Chí Minh vạch ra.
Đảng ta lúc đó là một bộ phận của Quốc tế Cộng sản, tất
yếu về mặt tổ chức phải chấp hành nghiêm túc các Nghị quyết của Quốc tế Cộng
sản và cũng không tránh khỏi bị ảnh hưởng tiêu cực của những quan điểm mang
tính “tả’’ khuynh đang ngự trị. Chính vì thế, sự phê phán trên của Quốc tế Cộng
sản đã có tác động to lớn, chi phối mạnh mẽ đến nhận thức và thái độ của Đảng
ta đối với tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hội nghị Trung
ương tháng 10 năm 1930 của Đảng họp ở Hương Cảng đã thông qua “ Luận cương
chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương’’ và “ Án nghị quyết của Trung ương toàn
thể Đại hội nói về tình hình hiện tại ở Đông Dương và nhiệm vụ cần kíp của
Đảng’’. Nghị quyết phê phán Chánh cương
vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng do Hồ Chí Minh soạn
thảo là phạm sai lầm về chính trị, về việc tổ chức Đảng, về “Điều lệ và tên
Đảng’’. Hội nghị cho rằng, những sách lược mà Hồ Chí Minh vạch ra, thể hiện
Người còn mang nặng dấu ấn của chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, “ chỉ lo đến việc phản đế, mà quên mất lợi ích giai cấp tranh đấu ấy
là một sự rất nguy hiểm ’’[1].
Hội nghị đã đi đến quyết nghị: thủ tiêu Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng, đổi tên Đảng Cộng
sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương. Trên tinh thần ấy, tháng 3 năm
1935, trong Thư của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương do Đại
hội Ma Cao bầu ra gửi Quốc tế Cộng sản, đã viết rằng, ở Đông Dương và Xiêm
đang phát động một cuộc đấu tranh chống những tàn dư khuynh hướng hữu khuynh,
cải lương, dân tộc chủ nghĩa “của các đồng chí Hội Việt Nam cách mạng Thanh
niên và của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, những tàn dư ấy rất mạnh và tạo thành một
chướng ngại nghiêm trọng cho sự phát triển chủ nghĩa cộng sản”[2].
Tuy nhiên, đến tháng 7 năm 1935, đứng trước nguy cơ của chủ nghĩa phát xít và chiến tranh thế giới mới
đang đến gần, Đại hội VII Quốc tế Cộng sản đã nghiêm khắc tự phê bình về những
sai lầm "tả" khuynh, cô độc, biệt phái thể hiện trong Nghị quyết Đại
hội VI của mình. Đại hội đã chỉ rõ xu hướng “ tả’’ khuynh, chẳng những có tác động rất tiêu cực đến việc
tập hợp, thu hút lực lượng để thành lập “ Mặt trận thống nhất của giai cấp công
nhân’’, mà còn cản trở to lớn đến việc tuyên truyền, lôi kéo các lực lượng dân
tộc, dân chủ vào một mặt trận chống đế quốc thống nhất. Đại hội có sự chuyển hướng
về sách lược, chủ trương thành lập “Mặt
trận nhân dân chống phát xít’’. Điều đó được thể hiện một cách tập trung,
sâu sâc và cụ thể trong bản Báo cáo chính trị “Sự tấn công của chủ nghĩa phát
xít và những nhiệm vụ của Quốc tế Cộng sản trong cuộc đấu tranh của giai cấp
công nhân chống chủ nghĩa phát xít’’, mà Đimitơrốp, Chủ tịch mới của Ban chấp
hành Quốc tế Cộng sản đã trình bầy tại Đại hội. Và có lẽ đến lúc này,
do sự đổi mới nhận thức của Quốc tế Cộng
sản, mà những quan điểm đúng đắn trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng về cách mạng Việt Nam, về tuyên truyền, tập hợp,
đoàn kết các lực lượng cách mạng chống đế quốc của Hồ Chí Minh, mới được Quốc tế Cộng sản thừa nhận.
Dưới ánh sáng của Đại hội VII Quốc tế Cộng sản, tháng 10 năm 1936, Đảng ta đề ra chiến
sách mới, phê phán những biểu hiện "tả" khuynh, cô độc, biệt phái trước
đây, đồng thời chỉ rõ: "Chiến sách mới của Đảng là chiến sách theo điều
kiện hiện thực ở xứ Đông Dương, theo kinh nghiệm tranh đấu của Đảng, học kinh
nghiệm của Quốc tế Cộng sản và kinh nghiệm của cuộc vận động cộng sản thế giới,
không phải đem kinh nghiệm xứ này sang xứ khác một cách như máy"[3]. Tháng 9 năm 1937 trong “Nghị quyết của khoáng đại Hội
nghị của toàn thể Ban Chấp hành Trung ương của Đảng Cộng sản Đông Dương’’ tiếp
tục chỉ rõ: “ Khoáng đại Hội nghị nhắc các đồng chí cần tập trung lực lượng
chống chủ trương biệt phái cô độc, tả khuynh, là cái nạn nguy hiểm nhất trong
giai đoạn này. Thế không phải là ta có thể lãng bỏ sự tranh đấu chống các xu
hướng hữu khuynh và thỏa hiệp’’[4].
Đến tháng 11 năm 1939 trong Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng
sản Đông Dương khẳng định: "Đứng trên lập trường giải phóng dân tộc, lấy
quyền lợi dân tộc làm tối cao, tất cả mọi vấn đề của cuộc cách mệnh, cả vấn đề
điền địa cũng phải nhằm vào cái mục đích ấy mà giải quyết"[5]. Nghị quyết của Đảng(11/1939) còn vạch ra chiến lược để
thu hút, tập hợp các lực lượng vào “ Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông
Dương’’. Nghị quyết xác định: “ Công nông phải đưa cao cây cờ dân tộc lên, vì
quyền lợi sinh tồn của dân tộc mà sẵn sàng bắt tay với tiểu tư sản và những
tầng lớp tư sản bổn xứ, trung tiểu địa chủ còn có căm tức đế quốc, vì sự căm
tức ấy có thể làm cho họ có ít nhiều tinh thần chống đế quốc’’[6];
và vì thế, “ Lực lượng chính của cách mệnh là công nông dựa vào các tầng lớp
trung sản thành thị, thôn quê và đồng minh chốc lát hoặc trung lập giai cấp tư
sản bổn xứ, trung tiểu địa chủ. Mặt trận ấy phải dưới quyền chỉ huy của vô sản
giai cấp’’[7].
Theo đó, vào thời gian này, những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn
đề phân hoá kẻ thù, tranh thủ bạn đồng minh, đoàn kết xây dựng lực lượng …
cũng đã trở lại với tư tưởng trong Chánh
cương, Sách lược vắn tắt của Đảng do Hồ Chí Minh soạn thảo. Đặc biệt là,
từ trong và sau Hội nghị Trung ương lần thứ Tám của Đảng(5/1941), tư tưởng Hồ
Chí Minh đã trở thành linh hồn, ngọn cờ chỉ đạo Đảng ta và cách mạng Việt
Nam. Chính vì vậy, trong bộ “ Văn kiện Đảng toàn tập” mới nhất, ở
phần lời mở đầu của tập 4 và tập 5 có
viết: “do sự hạn chế về nhận thức lý luận và thực tiễn cách mạng Việt Nam lúc
bấy giờ, nên trong một số văn kiện của Đảng đã có những ý kiến nhận xét không
đúng về tư tưởng và hoạt động của đồng chí Nguyễn Ái Quốc.
Thực tế lịch sử sau này đã cho thấy những quan điểm của Nguyễn Ái Quốc là đúng
đắn, những ý kiến phê phán Nguyễn Ái Quốc lúc ấy là sai lầm”[8].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cũng khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan
điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết
quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện
cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của
dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết
dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thực sự của dân, do
dân, vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về
phát triển kinh tế và văn hoá, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân; về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư;
về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật
trung thành của nhân dân …
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường
cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn
của Đảng và dân tộc ta” [9]. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Đổi
mới không phải xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ
nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng của Đảng và
kim chỉ nam cho hành động cách mạng.’’[10]
Thế mà, một số phần tử cơ hội đang
làm tay sai cho các chuyên gia chống cộng, các “học giả’’ tư sản đã cố tình cắt
xén, bóp méo, xuyên tạc, tuyên truyền không đầy đủ các quan điểm của Quốc tế
Cộng sản, nhất là của Đảng ta về tư
tưởng Hồ Chí Minh, hòng góp phần làm suy yếu đi đến phủ định tư tưởng Hồ Chí
Minh nói riêng, nền tảng tư tưởng của Đảng ta nói chung. Nghị quyết số 09 – NQ/TW của Bộ Chính trị (khoá VII) về một số định hướng lớn trong công tác tư
tưởng hiện nay đã chỉ rõ: “Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
là học thuyết cách mạng và khoa học, là vũ khí tinh thần của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và của cả dân tộc ta … Khi các thế lực thù địch ra sức tấn
công nền tảng tư tưởng của Đảng nhằm đẩy chúng ta đi chệch hướng thì đấu
tranh để bảo vệ, phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh là vấn đề quan trọng, trở thành nhiệm vụ hàng đầu trong công tác
chính trị, tư tưởng và lý luận của toàn Đảng, toàn dân ta”[11].
TS Nguyễn Đình Tu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét